[NOVEL] GIẤC MỘNG XOẮN ỐC - Chương 9
9.
Ngửa hai bàn tay ra, ta chăm chú nhìn những đường chỉ tay và thớ thịt. Những vết chai cứng đã mềm hơn, nhưng vẫn còn có thể cảm nhận được dấu tích của nghề cũ. Những vết chai từ ngày xưa trồng rẫy chưa hoàn toàn biến mất, đầu ngón tay thô ráp đến nỗi nứt cả da. Có lẽ, suốt đời này cũng chẳng thể mịn màng như tay của âm nhân khác.
“Gi Cho, ở trong đấy à?”
Nghe tiếng gọi bên ngoài, ta thò đầu ra khỏi cửa sổ. Hai âm nhân hiếm hoi trong tiệp khách sở còn đối xử tử tế với ta đang đứng đó, ăn mặc chỉn chu, mỗi người xách theo một chiếc giỏ bên hông.
“Tụi ta tính đi nhặt lá đỏ, đi cùng không?”
Ta đảo mắt nhìn quanh cảnh vật đã rực rỡ sắc thu. Mỗi độ này, các kỹ nô thường gom lá phong về để phơi khô. Lá khô sẽ được ép vào thư tình hoặc dán lên giấy dán cửa sổ. Một kiểu xa xỉ nho nhỏ của mùa thu.
Ta chẳng muốn động đậy, nhưng vì bụng đói nên gật đầu. Dẫu nhặt lá chỉ là cái cớ, mục tiêu chính vẫn là hái hồng. Ta không nói gì, cầm lấy cây sào dài bằng người do một người trong nhóm đưa.
“Gi Cho cao to, đi cùng là tốt rồi.”
“Việc này, Gi Cho là đỉnh nhất đấy.”
Lời nịnh nọt cứ thế tuôn ra. Dù bình thường chẳng mấy ai gần gũi, nhưng hễ có việc cần dùng sức, ta lại bị kéo ra. Trong tiệp khách sở, âm nhân thì nhiều nhưng âm nhân nam như ta thì ít. Ta cao hơn bọn họ hẳn một gang, sức lực cũng vượt trội.
Mấy người kia ríu rít rằng những cành thấp đã trụi hết lá. Giọng nói tươi sáng ấy nghe như tiếng chim nhỏ ríu rít, làm tan đi phần nào lớp âm u đang đè lên đầu ta.
“Bên chuồng súc vật chắc vẫn còn nhiều. Chỗ đó hôi nên không ai dám đến.”
“Có cây hồng ở đó à?”
“Ta thích hạt dẻ hơn là hồng.”
“Trong cung làm gì có cây hạt dẻ.”
Vì lớp vỏ sắc nhọn, cây hạt dẻ không được trồng trong cung, lỡ dẫm trúng thì nguy hiểm. Khi còn ở núi, đói thì vẫn nướng hạt dẻ trên than mà ăn. Từ khi vào cung, ta chưa từng thấy lại món ấy.
Vừa nghe tới hạt dẻ, ta đã thấy thèm. Ta nuốt nước bọt. Trong cung hình như vẫn còn một cây hạt dẻ nằm ở khu cung cũ phía sau tiệp khách sở. Khu ấy có đủ loại cây chắc trước đây chủ nhân rất yêu thích trồng trọt. Ngay cả bụi dây leo héo úa cũng toàn giống quý hiếm. Cái ao nơi ta ngắm cá cũng lớn bất thường. Dựa vào vị trí, có lẽ đó từng là biệt cung dành cho hoàng thân nào đó, giờ thì bỏ hoang, vắng như tịch mịch.
“Này, cái cung phía sau tiệp khách sở… rốt cuộc là gì thế?”
“Hử?”
“Chỗ sau núi ấy. Đi đường mòn lên là thấy. Có cây hồng, đủ thứ. Sao chẳng ai vào đó nhỉ?”
Hai người kia liếc nhìn nhau, ánh mắt rạng rỡ bỗng chốc tối sầm lại. Người vừa đưa cây sào cho ta khẽ liếc quanh, thì thầm:
“Nơi đó… nghe nói có ma. Nghe đồn có phi tần từng được sủng ái treo cổ chết ở đó đấy.”
“À, ta nghe bảo là hoàng hậu đấy. Vì hoàng đế sủng ái người khác mà uất ức treo cổ tự vẫn.”
“Nhưng cung hoàng hậu ở nơi khác cơ mà? Sao lại chết ở đó?”
“Nghe nói bị đuổi khỏi cung, đến cung mới của người được sủng ái rồi treo cổ trong tủi hận đấy.”
Ba âm nhân vừa nhìn quanh vừa líu lo trò chuyện. Dù là đề tài dễ khiến người ta vạ miệng, nhưng giọng nói cứ lớn dần lên giữa những lời đùa râm ran.
“Ta lại nghe kể là một vị hoàng tử bệnh nặng qua đời, mẫu phi vì thương con mà treo cổ theo.”
Có một điểm chung giữa những câu chuyện họ kể…
“Sao câu chuyện nào cũng là treo cổ vậy?”
“Thì…”
“Ra ngoài là gặp mà.”
“Ma ấy.”
“Ma nữ treo cổ lủng lẳng dưới mái hiên, không hề có bóng, cứ lắc lư qua lại, bao nhiêu người ngất vì trông thấy.”
Một cơn đau âm ỉ nhói lên trong đầu ta như ký ức mờ nhạt đang dần lộ rõ. Tà áo trắng dài, lắc lư vô thanh vô ảnh chợt hiện lên như ảo giác.
“Có lẽ vì nói chuyện ma quỷ… ta thấy hơi lạnh rồi đây.”
Ta kéo áo sát người, dù gió thu hôm ấy vốn không lạnh lắm. Các âm nhân gật đầu, rúc vai lại đầy e ngại. Khi ta vô tình vuốt tóc, một chiếc lá phong chẳng biết đậu từ lúc nào khẽ rơi khỏi kẽ tay.
Trong lúc tán chuyện ma mị, chẳng ai để ý chúng ta đã đến trại súc vật.
Khác với chuồng ngựa, trại súc vật nằm gần cổng phụ nơi thương nhân qua lại. Dù gọi là “trại”, nơi này không dùng để giết mổ mà chỉ nuôi gà, vịt và vài con bò sữa, dê cái. Người canh trại, một thái giám thấp cấp, lơ ngơ nhìn chúng ta tiến vào.
“Làm gì mà kéo nhau tới thế?”
“Bọn ta nhặt lá phong một chút thôi mà.”
Thấy cây sào dài trong tay ta, lão ta khẽ cười khẩy. Hắn chẳng màng đến việc hái trộm hồng, chỉ khoát tay tỏ ý mặc kệ. Bọn âm nhân thì ríu rít vừa nhặt lá vừa đón lấy những trái hồng ta dùng sào đập rơi xuống. Dù những quả hồng ấy còn xanh và chát, nếu đem phơi nắng, ắt sẽ thành hồng dẻo ngọt ngào.
Chúng ta quanh quẩn dưới tán cây tới tận lúc mặt trời lên cao. Dù mùi phân gia súc khiến ta khó chịu, nhưng không đến nỗi không chịu được. Lá đỏ bao quanh lại đẹp đến xao lòng.
“Ôi, chỗ này đúng là nơi tuyệt vời đấy!”
“Phải đó, phải đó.”
Các âm nhân cười tươi, dùng lá phong phủ lên đầy giỏ hồng. Trước khi rời đi, họ tặng gã canh trại vài quả, rồi theo lối cũ quay về tiệp khách sở. Ta mang giỏ thay cho họ – thứ nặng nề với âm nhân nữ, với ta lại chẳng khác gì nâng một cành hoa.
Ta dõi mắt nhìn theo bóng ba người đi trước, thấy lòng mình chùng xuống một nhịp. Cơ thể mềm mại, đường nét nhỏ nhắn như họ, dù có là hoàng đế đi nữa, hẳn cũng chẳng nỡ ra tay. Rốt cuộc vẫn là thân hình ta… có vấn đề. Nếu ta phát lộ sớm như các âm nhân khác, hẳn đã dịu dàng như mầm xuân mới nhú. Khi ấy, biết đâu đã được đối xử tử tế như trong mộng.
Cuối cùng, tất cả chỉ là giả định. Ta khẽ cười nhạt. Những ảo tưởng ấy chẳng khác gì hồn ma ở cung điện bỏ hoang, vô nghĩa và xa vời. Nếu phát hiện sớm hơn, nếu được chọn, nếu không là âm nhân… thì liệu đời có khác?
“Đến nơi rồi. Vất vả quá, Gi Cho.”
“Về cẩn thận nhé, Gi Cho.”
“Cảm ơn vì đã xách giỏ nha~”
Lũ chim nhỏ líu lo, rồi tan vào nhịp sống thường nhật. Sau giờ trưa, kỹ nô trong tiệp khách sở bắt đầu luyện múa, học hát. Những ai khéo chữ thì được đưa đi hầu chuyện các vị quý nhân. Lúc mới vào cung, ta cũng từng được huấn luyện – dù thân thể cứng nhắc, ta vẫn học vũ, tập ca. Có lần, khi được gọi vào tẩm cung hoàng đế, ta còn nhận được ánh nhìn ngưỡng mộ. Nhưng chỉ duy nhất hôm đó.
Ngày hôm sau, với cơ thể đầy thương tích và bầm tím, ta bước ra khiến bao người bàng hoàng. Hoàng đế – người thường được ca tụng là khoan hậu, sao lại ra tay đến mức ấy? Ai cũng truy hỏi, nhưng ta chẳng thể nói gì. Khi ấy, ta chỉ ngồi yên, rót một ly rượu.
Sự việc rúng động đến nỗi hoàng đế đích thân phái ngự y tới, khiến người người càng thêm rối bời.
“Tại sao ngài lại nổi giận đến mức ấy…?” Ta có linh cảm, nhưng chẳng thể nói ra.
Dù ký ức trước khi phát lộ đã mờ nhạt, ta vẫn còn vài đoạn rời rạc.
Ta cầm con dao nhỏ, khéo léo lột vỏ từng trái hồng. Cơ thể từng rắn rỏi nay đã mềm yếu, sức lực chẳng còn bao nhiêu nhưng những thao tác khéo tay vẫn còn đó. Khi ta xếp từng quả hồng đã gọt lên bàn, ký ức như mây mù từ xa kéo đến. Nếu không tự nhắc nhớ, hẳn ta sẽ quên sạch.
Lúc vừa phát lộ, ta đã rơi vào hỗn loạn và tuyệt vọng. Nhưng xen giữa, là một nỗi nhẹ nhõm kỳ lạ như được giải thoát.
Âm nhân không thể đi săn vì cơ thể tỏa ra hương, dễ bị phát hiện. “Mày chẳng có nhan sắc, cũng chẳng có ích gì” người ta trả ta về cho cha mẹ, những người làm rẫy trên núi. Vì không được chăm sóc đúng cách khi phát lộ, ký ức ta lỗ chỗ như tổ ong. “Đồ vô dụng” họ nói, nhưng vẫn cho ta ăn ở bởi vì ta là người nhà, họ bảo vậy.
Ta đặt trái hồng đã gọt xong lên bàn, hết trái này đến trái khác. Mới chưa đầy nửa khắc, bàn đã đầy hơn mười quả.
Ta buông dao, vuốt tay qua cánh tay nổi da gà. Có vẻ sắp cảm lạnh nên đầu đau, vai nặng. Phải xâu hồng lại để phơi thôi. Nhưng khi vừa vặn cuống quả đầu tiên, một ký ức ghê rợn ùa về, bóng đen dài lắc lư dưới mái hiên, treo lủng lẳng như xác chết…
“Chết tiệt thật…”
Ta buồn nôn. Tại sao lại như vậy? Rõ ràng những ký ức trước khi trở thành âm nhân đều nhạt nhòa, vậy mà chỉ riêng ký ức đó lại hiện lên rõ nét đến đau đớn.
Không còn tâm trạng làm việc, ta buông tay. Dù bụng đang đói, mấy quả hồng kia vẫn còn chát không thể ăn, bữa cơm trưa hôm nay dường như cũng bị bỏ qua, chẳng ai gọi ta đi nhận phần cả. Người ta bảo cảm lạnh thì phải ăn uống đủ đầy, nghỉ ngơi dưỡng sức, nhưng trong cung điện nguy nga lộng lẫy này, lại chẳng có thứ gì để ta ăn. Trời trở lạnh, nếu không giữ được sức khỏe thì bệnh sẽ dây dưa mãi không dứt, có khi chết lúc nào chẳng hay.
Ta gượng đứng dậy, khoác lại áo ngoài. Phải lên khu cung bỏ hoang phía sau núi, mong tìm được ít hạt dẻ. Dẫu người ta đồn rằng nơi ấy có ma, nhưng ta đã đến vô số lần, có thấy gì đâu, hôm nay chắc cũng chẳng khác. Ta đổ mớ lá phong còn sót trong giỏ lên bàn, kẹp chiếc giỏ rỗng vào tay, lòng hơi vội vã.